Lịch sử Sân_bay_Paris-Le_Bourget

Cuối năm 1914, khu vực giữa DugnyLe Bourget vẫn còn là một bãi đất rộng bỏ trống, được trưng dụng trong Thế chiến thứ nhất. Nhiều máy móc quá cảnh tại căn cứ quân sự này trước khi chuyển ra mặt trận bằng đường không. Một số phi công nổi tiếng đã thực hiện các chuyến bay xuất phát từ Le Bourget, địa điểm của phi đội Camp Retranché de Paris. Vào khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến, một phần của căn cứ được chuyển cho hàng không dân dụng. Những chuyến bay thương mại tới LondonBruxelles được bắt đầu vào năm 1919. Sân bay Bourget cũng là điểm hạ cánh khi Charles Lindbergh thực hiện chuyến bay đầu tiên từ New-York tới Paris vào năm 1927 và là điểm xuất phát cho Dieudonné Costes cùng Maurice Bellonte với chuyến bay theo chiều ngược lại vào năm 1930.

Năm 1937, một phi trường mới theo bản thiết kế của kiến trúc sư George Labro được khánh thành nhân dịp Triển lãm thế giới. Trong khoảng thời gian Thế chiến thứ hai, sân bay trở thành căn cứ quân sự của Đức. Những đường băng bê tông được xây dựng và nơi đây đã trở thành mục tiêu của nhiều cuộc oanh tạc. Cuối thế chiến, từ tháng 5 năm 1946, đã có 42 ngàn người tập trung, tù nhân được trung chuyển qua sân bay Le Bourget.

Sau chiến tranh, lưu lượng hành khách tăng lên nhanh chóng. Năm 1952, Paris mở sân bay thứ hai tại Orly. Trong những năm 1960, sự quá tải ở sân bay Orly khiến một số đường bay lại quay về Le Bourget. Cho tới năm 1973, Paris phải tiếp tục xây dựng sân bay mới Charles-de-Gaulle.

Từ 1953, cứ hai năm một lần, Le Bourget trở thành địa điểm của Paris Air Show, ngày nay là một trong những triển lãm hàng không quan trọng nhất. Đến 1973, bộ sưu tập của Musée de l’Air et de l’Espace dần được trưng bày trong các nhà chứa máy bay phía Nam Le Bourget. Từ năm 1977, sân bay Bourget chỉ còn dành cho một số chuyến bay được biệt[4].